ĐĂNG THÀNH
Anh tên thật là Nguyễn Dương, còn Nhất Dương là bút danh do người bạn thơ Thế Mạc gọi, rồi thành quen; Nhất Dương trong kinh dịch thuộc quẻ phục, trong âm có dương, tượng trưng cho một mầm sống sinh sôi nảy nở trong không gian của âm, vì thế mà người xưa có câu: “ Đông chí nhất dương sinh”, tức vào tiết đông chí giá lạnh cùng cực thì cũng chính là lúc có một khí dương của mùa hạ được sinh ra. Không biết nhà thơ Thế Mạc dưới góc nhìn nào mà gọi anh là Nhất Dương, riêng tôi thấy bút danh và tính cách anh có nét tương đồng; điềm đạm, ít nói nhưng có chiều sâu nội tâm và trong sáng.
Trong tình yêu, những anh nói liên thiên từ đầu đến cuối thì chẳng cô nào nhòm ngó, còn những anh thỉnh thoảng thả một câu, câu nào “chết” câu ấy thì bội thu; có lẽ Nhất Dương thuộc tuýp người thứ hai, dù không nói nhiều nhưng ánh mắt, nụ cười sôi nổi và cuốn hút; chuyện trò thật thà, thủng thẳng từng câu nhưng làm người nghe cứ thon thót.
Thơ anh cũng vậy, ngày càng hình thành tính cách rõ nét: hào hoa, chân thành, nhân hậu, kiệm lời, triết lý và sâu sắc; những câu thơ ấn tượng cứ “đóng đinh” vào đầu người ta, buộc phải suy nghĩ và nhớ mãi.
Nhất Dương có cái nhìn biện chứng nhưng góc nhìn lại đa chiều và bất ngờ: “ Có bao giờ/ anh ở tận đáy/ của một cái chai đã cạn/ nỗi khát còn nguyên mênh mang” (SAY), tưởng dừng lại ở tâm trạng say đó, không ngờ cái mênh mang ấy lại là: “Dài chiều thời gian/ Rộng bề nhân thế/ Dày nỗi ưu tư”– thì ra bảo bối hồ lô (cái chai) lớn quá thật, chứa đủ nhân tình thế thái… Giờ ta đến với bài “ RƯỢU SAY”:
“ Rượu đã uống rồi
người bảo say
Men chưa đủ để đến miền
tít- tỉnh
Rượu ngấm rồi, say thành tỉnh
Nỗi thương đời tỉnh hóa ra say”
Thường những người ít nói khi uống rượu ngà ngà lại nói rất hay, hình như rượu là cái cớ để người ta mạnh dạn nói ra tâm tư ruột gan mình, có vẻ tâm trạng ngà ngà này vẫn chưa đủ để tác giả bộc lộ hết, “chưa đủ để đến miền tít- tỉnh”; không hiểu“miền tít- tỉnh” nó thế nào? Tác giả chọn được từ “tit- tỉnh” đặt vào đây hay tuyệt- thật đã ! Có lẽ ai cũng từng có tâm trạng như vậy.
Bài thơ “ĐƯỜNG” là một trong những bài thơ cực ngắn nhưng làm cho người đọc bật cười, nhớ và suy nghĩ: “ Theo hút tà áo xanh thơ mộng!/ Bỗng thấy tảng mông trần thế/ Đi?/ Về?”, khác biệt giữa ước vọng và thực tế phũ phàng, thơ mộng và trần tục làm ta nhiều khi bối rối, tiến thoái lưỡng nan.
Khi tuổi ngoài bảy mươi vẫn thấy Nhất Dương trẻ trung, vẫn ước vọng, vẫn “khát”:“Nghe em!/ Anh thèm!/ U ám mùa đông lạnh buốt/ anh thèm ngày nắng quang mây/ Chói trang mùa hè đỏ lửa/ anh thèm dìu dịu mưa rơi/ Ẩm thấp mùa xuân nẩy lộc/ anh thèm bừng nắng xanh trời/ Hanh heo mùa thu lá rụng/ anh thèm hương sắc khoe tươi” (KHÁT). Cuộc sống là vậy, mỗi đời người là tập hợp một chuỗi những khát vọng, tình yêu cuộc sống, một chuỗi những ước mơ, lúc đầu là nhỏ rồi lớn dần, “thèm” mãi rồi tích tụ dần dần thành “khát”, “lang thang” vào cõi tiên vẫn còn mơ ước: “Nỗi thèm thành khát/ theo anh cả đời/ Rồi đến một ngày…/ Hóa…/sinh đói khát…/ lang thang bốn mùa…”
Với tính tình hòa nhã, ít bộc bạch, nếu không đọc thơ Nhất Dương thì ta không hiểu anh. Lần đầu đọc bài thơ “PHẬT”, về sau bài thơ đổi tên thành “LÊN CHÙA”, tôi giật mình và bắt đầu quí trọng tính điềm đạm, khiêm tốn ở anh: “Phật có tai to/ nghe tỏ tiếng thầm thì đêm tối/ thẳm xa/ Phật có đôi mắt khép hờ/ đã từng mở to, cái gì cũng thấy/ Phật ngồi tĩnh lặng/ bởi đã từng đi/ lặn lội qua mọi miền sướng khổ/ vàng son tăm tối”. Cái nhìn và liên tưởng của Nhất Dương về phật khá đặc biệt, nhìn phật dưới góc độ con người; phật cũng thấy, nghe như người, cũng trải đời, “lặn lội qua mọi miền sướng khổ/ vàng son tăm tối”, cũng hạnh phúc, cũng bất hạnh …Người cũng giống như phật, sinh ra để trải đời, để sướng khổ, để hiểu biết; hiểu biết đến độ ngồi “tĩnh lặng”, “mắt khép hờ” mà nghe hết, thấy hết…để rồi ra đi mãi mãi… và kết lại thì người và phật là một:
“Phật chẳng nói gì
cười nhắc nhở
Ngụp lặn trần gian
đã đã rồi, thì đi!
Chớ hoài nghi
Ai cũng là ta cả”
Nhất Dương bước vào tuổi già “Dày nỗi ưu tư”, “lòng nặng đầy phố cũ” vì nhà cũ, phố cũ đã nhiều thay đổi, cô láng giềng “tóc bạc, lưng còng”…Đêm nằm“khắc khoải” thương đời, thương người, thương con chim cuốc cô đơn bị lạc giữa phố, mất tổ ấm, không người thân:
“Tân mão vào xuân, rét mướt qua.
Vẳng vang quắc quắc phía sau nhà
Đầm ao xây phố; ơ! Con Cuốc
Khua động đêm dài mãi gần xa.
Nghe tiếng chim Cuốc mà liên tưởng đến mình, đời người:
“Quắc quắc đêm trường tự ngàn xưa
Tụng niệm thăng trầm nắng mưa thế cục
Từ trẻ thơ đi trọn đời…thân thuộc
dọc thời gian sần sùi”
Bài “ NGHE TIẾNG CON CHIM CUỐC” là một bài thơ hay, thông qua tiếng chim cuốc tác giả không những khắc họa thân phận con người mà còn cả thế sự, thời cuộc nữa. Tiếng chim cuốc “lẻ loi” trong đêm khuya thật day dứt, buồn thương, thảm thiết, cứ văng vẳng vang xa mãi, vừa như thực, lại như mơ, lại vừa như ký ức từ quá khứ vọng về và in đậm vào tâm trí người đọc; thương cho thân phận con cuốc và thương cho kiếp nhân sinh:
“Quắc quắc đêm xuân- thực hay mơ
Tiếng gọi bạn tình- mải miết…
Sao lẻ loi!
Hay
Lời giã biệt
lang thang về phía trằm đoài
miền mênh mang huyền thoại
khắc khoải những vần thơ
Ơ!
Đêm xuân nay
lơ mơ
quắc quắc”
Nhất Dương làm thơ với lượng bài không nhiều, đủ in một tập; anh nói rằng chơi để làm thơ, làm thơ để chơi và bộc bạch nỗi niềm…nhưng cũng đủ để khắc họa chân dung một nhà thơ, có nhân cách và phong cách riêng không lẫn với ai cả; không phải nhà thơ nào cũng làm được điều này. Anh cứ thủng thẳng buông từng từ, từng câu sâu sắc và triết lý; hình ảnh ấn tượng, điển hình, khái quát cao; liên tưởng trong thơ anh không xuôi chiều mà đa chiều, xa, sâu rộng và trí tuệ, thế nên luôn tạo ra những khoảng trống để người đọc tưởng tượng và suy tư… Về hình thức nghệ thuật, tạng của anh rất hợp thể loại thơ bậc thang tự do để anh thể hiện đúng mình: phóng khoáng và kiệm lời; những bài thơ dạng này thành công hơn các thể khác. Thông qua những tác phẩm thơ người đọc thấy rõ phẩm chất một con người, một thầy giáo Nhất Dương trí tuệ, hiền hòa, đôn hậu và bao dung.
Sơn Tây 08/ 10 /2014 (Rằm tháng chín)
N Đ T
]]>
(Phạm Thị Sửu)
Năm sinh: 1950
Nơi sinh và quê: Thị trấn Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội
Nơi công tác: báo NCGVN, báo Nhân Dân, phóng viên mặt trận báo Nhân Dân và Đài PT Giải phóng tại chiến khu V
Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, Hội viên Hội Văn nghệ sỹ Xứ Đoài
Ảnh tại thành cổ Sơn Tây
Từ trái sang phải: Nguyễn Đăng Thành, Ngọc Dung, Phạm Hồ Thu, Đoàn Thị Ký, Nhất Dương, Đoàn Thị Lam Luyến, Khuất Quang Thái
………………………………………………
Ru anh
Ngủ đi người của em thương
Ngủ đi ngọn lửa yêu đương, ngủ nào
Ngủ đi vầng trán thanh cao
Ngày mai công việc bao nhiêu đang chờ
Ngủ đi cả những vần thơ
Xin đừng đánh thứcđợi chờ, khát khao
Ngủ đi mắt đẹp em yêu
Trăng rằm sáng thế cũng theo ngủ rồi
Lặng ngoan nào trái tim ơi
Sớm mai em lại nói lời hiền ngoan…
Ngủ đi người của em thương
Tình yêu gần lắm mà đường thì xa
Ngủ đi ru nỗi cách xa
Thành vòng tay ấm để mà ru nhau…
4- 1982
Xứ Đoài mây trắng
(Tưởng nhớ nhà thơ Quang Dũng)
Anh sinh ra từ xứ sở này. Nhưng hình như xứ sở này chọn anh để ngợi ca hết mình về vẻ đẹp bí ẩn của những làn mây cổ tích.
Có bao nhiêu người sinh ra bên dòng sông Tích, cớ sao dòng sông lại chọn anh mà chầm chậm về khơi?
Đình Tản Viên lừng lững bên trời, có thể nào một lần dạo chơi anh đã gặp chàng Sơn Tinh và nàng Mỵ Nương xứ mộng – và vì thế, anh đã biến thành thi nhân suốt đời lãng đãng đi tìm vẻ đẹp của nỗi buồn và nỗi khát khao cháy bỏng của sự phiêu du?
Năm tháng đã qua đi, năm tháng sẽ đi qua, Xứ Đoài còn đây Ba Vì núi Tản. Và tất cả đều biết rằng anh là thi nhân đích thực của xứ sở này, người ta nói với nhau rằng: anh bảo Xứ Đoài mây trắng lắm…
Xứ Đoài đêm 28-6-2000
Vô thức
Em xới tung em lên, xới tung anh lên bằng tình yêu và những điều trái ngược – ngược em, ngược anh, ngược tình yêu- với hy vọng tìm ra điều có thật: rằng trái tim anh đã yêu ra sao, cay đắng ra sao, sắp đặt ra sao…Nhưng em vẫn không nhìn rõ…
Và cuối cùng em chỉ muốn cùng anh quay trở lại cái phút giây đầu tiên nguyên thủy – hai ta nhìn nhau, hôn nhau và không nói câu gì. Trái tim đập rộn ràng và ta đã lắng nghe…
]]>
Hãy lắng nghe ta…
Qúa nửa cuộc đời chìm dưới bùn đen
Bỗng
Một sớm hè
Vươn mặt đầm hương sắc ngời sen
(T.T.Vân)
Thơ Thế Mạc
Bóng hoa, bóng người
“Viện cớ hoa tàn chẳng quét đất…
…Quét sân ngày lệ (sợ) bóng hoa tàn”
(Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi)
Đi xa chẳng bợt sắc vàng của cúc
Chân trời dậy một nỗi quê hương
Đến sắp tàn vẫn không rụng cánh
Quên u buồn thu nắng.
Người lướt đi mùa thu.
Chân người đạp trong tuyết
Bóng người con gái da nai thanh khiết
Trăng Tây Hồ ủ bóng hoa mai
Dưới hiên đốt hương đọc sách
Bút đọng hương mai thơm chữ
Lòng suối nông sâu gậy trúc dò tìm
Dưới bóng mai trắng trong như nước.
Người lướt đi mùa đông.
Thôi gối đầu trên đá
Đếm thời gian bằng cánh hoa
Nghiêng chén hoa hớp nguyệt
Bên ánh hoa nằm ngẫm sách
Mơ chim trắng được chết bên màu hoa thắm.
Một chiếc ghế bỏ không
Người ngồi trên cánh hoa mà bay lên…
]]>
Một thoáng về quá khứ
(nhớ Tản Đà)
Khăn điều ai nỡ giặt
Vắt vào màu thời gian
Giữ bầu cay nguyên vẹn
Để vị say đừng tan
Bờ cát dấp cái đau
Nỗi buồn nón che đầu
Lênh đênh mà trĩu nặng
Địu gánh sầu về đâu ?
Ai cầm trịch trống trầu
Đào trách thân dầu dãi
Quân tử trạnh thương người
Dong duổi mộng Liêu Trai
Yếm hồng làn gió phẩy
tở nhụy xòe cái hoa
Cô gái Khê dụi mắt
thả chiều hoàng hạc bay.
Bóng ngày qua
Em
đậm nét Sơn Tây
ngăm ngăm nắng gió đong đầy
biết mấy cơn mưa bất chợt
chẳng phai màu má bồ quân
Mỗi bước chân trần
gõ trên phố nhỏ
thả bồng tóc nhẹ như mây
mắt huyền thơ ngây
nụ cười hoa sữa
lao sao tà áo
thoảng lan hương trái cau tơ
Đoạn đường như mơ
dạo bên Thành Cổ
vai chạm vai
gío quyện thương hoài…
Đằng đẵng mười năm
áo tôi hết mùi khói đạn
phố nhỏ tìm về
chỉ còn dáng – hương vương lại
rêu phong bện mái nhà xưa
Ngày ấy
bây giờ
nhớ mà
Thương thương…
Tưởng như
Lao sao hoa sữa giao mùa
Ngỡ hương thiếu phụ như vừa thoảng qua
Gợi ngày xưa ấy trong ta
Lơ mơ xao động biết là còn vương
Hương trời đất hương thơm hương
Như mơ như thực khiêm nhường mơn man
Tưởng như thi thoảng gió đàn
Chép môi nhớ vị nồng nàn bỏ quên
Gái quê
Nhà em vườn tược xum xuê
Ao trong giếng ngọt, bốn bề rau tơ
Cau thì buông trái ngẩn ngơ
Tường rêu cổng gỗ khép hờ đó thôi
Chiều về đôi chim chìa vôi
Xuống giàn nhặt nắng sắp đôi lá trầu
Soi mình vục nước đồng thau
Bâng khuâng má bỗng ửng màu hây hây
KHÚC HOÀI NIỆM
Sơn Tây Xứ Đoài
Một chiếc lá bàng rơi
lướt trên những phím đàn
mênh mang hồn phiêu lãng
tim cung thương phố Đàn!
PHỐ ĐÀN
Lỗi cũ về phố Đàn
Còn đôi cây bàng đỏ
Vài ba nhà mái cổ
Tiếng đàn xưa mấy người?
Nghe đục trong chơi vơi
Lay theo làn gió trở
Mỗi bước chân bỡ ngỡ
Như đi vào chiêm bao!
ĐƯỢC SAY
HÃY THẬT SAY
Rượu em
rót cong miệng chén
nồng nàn lan tỏa
thay lời
Men dính rồi, môi muốn chạm,
xốn sang xa tắp…
mở tung cửa mắt.
Cạn…
Em
đừng né
thôi mà
Em mỉm cười
đây anh…
Dành dụm khoảng trời
ta mặc Giời mưa gió
Đôi bờ môi để ngỏ
tràn…
Cạn đáy lơ mơ,
ngu ngơ trời đất
Em tỏ mờ
hiện sinh trong men đời ngọt đắng,
vị cay nồng càng thêm say đắm,
miền tít tỉnh
gọi đi?
]]>
Lên chùa
Phật có tai to
Nghe tỏ tiếng thầm thì đêm tối
Thẳm xa
Phật có đôi mắt khép hờ
đã từng mở to, cái gì cũng thấy
Phật ngồi tĩnh lặng
bởi đã từng đi
lặn lội qua mọi miền sướng khổ
vàng son tăm tối.
Phật chẳng nói gì
cười nhắc nhở
Ngụp lặn trần gian
Đã đã rồi, thì đi !
Chớ hoài nghi
Ai cũng là ta cả.
Cốc Vũ
Tàn xuânCanh Dần
mong mưa
chờ mưa
ngại mưa.
Nửa đêm- Cốc vũ
ào ào gió
Sấm ầm ì
chớp…
mãi chẳng dừng
tít tận trên cao.
Mưa rào.
Ếch không dậy
lỡ mùa đôi
vận hội.
Chậu cảnh nhà kia nước tràn đầy
Vườn ai chỉ ướt mấy ngọn cây.
Ngày xưa mẹ dạy:
“Qua cầu mới hay”.
Đêm nay.
Thắp nén tâm hương.
Lạy trời
mưa thuận…
mưa sao
mưa khắp
ắp miền người ta.
Tiết Cốc Vũ ở Sơn Tây
2010
N, Dương
Nghe tiếng con chim Cuốc
Tân mão vào xuân, rét mướt qua.
Vẳng vang quắc quắc phía sau nhà
Đầm ao xây phố; ơ ! Con Cuốc
Khua động đêm dài mãi gần xa.
Quắc quắc đêm trường tự ngàn xưa
Tụng niệm thăng trầm nắng mưa thế cục
Từ trẻ thơ đi trọn đời…thân thuộc
dọc thời gian sần sùi
Quắc quắc đêm xuân – thực hay mơ
Tiếng gọi bạn tình – mải miết…
Sao lẻ loi !
Hay
Lời giã biệt
lang thang về phía trằm đoài
miền mênh mang huyền thoại
khắc khoải những vần thơ
Ơ !
Đêm xuân nay
lơ mơ
quắc quắc
Xuân Tân Mão
ND
Khát
Nghe em !
Anh thèm !
U ám mùa đông lạnh buốt
anh thèm ngày ấm quang mây
Chói chang mùa hè đỏ lửa
anh thèm dìu dịu mưa rơi
Ẩm thấp mùa xuân nẩy lộc
anh thèm bừng nắng xanh trời
Hanh heo mùa thu lá rụng
anh thèm hương sắc khoe tươi
Nỗi thèm thành khát
theo anh cả đời
Rồi đến một ngày…
Hóa…
sinh đói khát…
lang thang bốn mùa…
Sơn Tây 02/2/2007
ND
ĐỌC THƠ NHẤT DƯƠNG
ĐĂNG THÀNH
Anh tên thật là Nguyễn Dương, còn Nhất Dương là bút danh do người bạn thơ Thế Mạc gọi, rồi thành quen; Nhất Dương trong kinh dịch thuộc quẻ phục, trong âm có dương, tượng trưng cho một mầm sống sinh sôi nảy nở trong không gian của âm, vì thế mà người xưa có câu: “ Đông chí nhất dương sinh”, tức vào tiết đông chí giá lạnh cùng cực thì cũng chính là lúc có một khí dương của mùa hạ được sinh ra. Không biết nhà thơ Thế Mạc dưới góc nhìn nào mà gọi anh là Nhất Dương, riêng tôi thấy bút danh và tính cách anh có nét tương đồng; điềm đạm, ít nói nhưng có chiều sâu nội tâm và trong sáng.
Trong tình yêu, những anh nói liên thiên từ đầu đến cuối thì chẳng cô nào nhòm ngó, còn những anh thỉnh thoảng thả một câu, câu nào “chết” câu ấy thì bội thu; có lẽ Nhất Dương thuộc tuýp người thứ hai, dù không nói nhiều nhưng ánh mắt, nụ cười sôi nổi và cuốn hút; chuyện trò thật thà, thủng thẳng từng câu nhưng làm người nghe cứ thon thót.
Thơ anh cũng vậy, ngày càng hình thành tính cách rõ nét: hào hoa, chân thành, nhân hậu, kiệm lời, triết lý và sâu sắc; những câu thơ ấn tượng cứ “đóng đinh” vào đầu người ta, buộc phải suy nghĩ và nhớ mãi.
Nhất Dương có cái nhìn biện chứng nhưng góc nhìn lại đa chiều và bất ngờ: “ Có bao giờ/ anh ở tận đáy/ của một cái chai đã cạn/ nỗi khát còn nguyên mênh mang” (SAY), tưởng dừng lại ở tâm trạng say đó, không ngờ cái mênh mang ấy lại là: “Dài chiều thời gian/ Rộng bề nhân thế/ Dày nỗi ưu tư”– thì ra bảo bối hồ lô (cái chai) lớn quá thật, chứa đủ nhân tình thế thái… Giờ ta đến với bài “ RƯỢU SAY”:
“ Rượu đã uống rồi
người bảo say
Men chưa đủ để đến miền
tít- tỉnh
Rượu ngấm rồi, say thành tỉnh
Nỗi thương đời tỉnh hóa ra say”
Thường những người ít nói khi uống rượu ngà ngà lại nói rất hay, hình như rượu là cái cớ để người ta mạnh dạn nói ra tâm tư ruột gan mình, có vẻ tâm trạng ngà ngà này vẫn chưa đủ để tác giả bộc lộ hết, “chưa đủ để đến miền tít- tỉnh”; không hiểu “miền tít- tỉnh” nó thế nào? Tác giả chọn được từ “tit- tỉnh” đặt vào đây hay tuyệt- thật đã ! Có lẽ ai cũng từng có tâm trạng như vậy.
Bài thơ “ĐƯỜNG” là một trong những bài thơ cực ngắn nhưng làm cho người đọc bật cười, nhớ và suy nghĩ: “ Theo hút tà áo xanh thơ mộng!/ Bỗng thấy tảng mông trần thế/ Đi?/ Về?”, khác biệt giữa ước vọng và thực tế phũ phàng, thơ mộng và trần tục làm ta nhiều khi bối rối, tiến thoái lưỡng nan.
Khi tuổi ngoài bảy mươi vẫn thấy Nhất Dương trẻ trung, vẫn ước vọng, vẫn “khát”: “Nghe em!/ Anh thèm!/ U ám mùa đông lạnh buốt/ anh thèm ngày nắng quang mây/ Chói trang mùa hè đỏ lửa/ anh thèm dìu dịu mưa rơi/ Ẩm thấp mùa xuân nẩy lộc/ anh thèm bừng nắng xanh trời/ Hanh heo mùa thu lá rụng/ anh thèm hương sắc khoe tươi” (KHÁT). Cuộc sống là vậy, mỗi đời người là tập hợp một chuỗi những khát vọng, tình yêu cuộc sống, một chuỗi những ước mơ, lúc đầu là nhỏ rồi lớn dần, “thèm” mãi rồi tích tụ dần dần thành “khát”, “lang thang” vào cõi tiên vẫn còn mơ ước: “Nỗi thèm thành khát/ theo anh cả đời/ Rồi đến một ngày…/ Hóa…/sinh đói khát…/ lang thang bốn mùa…”
Với tính tình hòa nhã, ít bộc bạch, nếu không đọc thơ Nhất Dương thì ta không hiểu anh. Lần đầu đọc bài thơ “PHẬT”, về sau bài thơ đổi tên thành “LÊN CHÙA”, tôi giật mình và bắt đầu quí trọng tính điềm đạm, khiêm tốn ở anh: “Phật có tai to/ nghe tỏ tiếng thầm thì đêm tối/ thẳm xa/ Phật có đôi mắt khép hờ/ đã từng mở to, cái gì cũng thấy/ Phật ngồi tĩnh lặng/ bởi đã từng đi/ lặn lội qua mọi miền sướng khổ/ vàng son tăm tối”. Cái nhìn và liên tưởng của Nhất Dương về phật khá đặc biệt, nhìn phật dưới góc độ con người; phật cũng thấy, nghe như người, cũng trải đời, “lặn lội qua mọi miền sướng khổ/ vàng son tăm tối”, cũng hạnh phúc, cũng bất hạnh …Người cũng giống như phật, sinh ra để trải đời, để sướng khổ, để hiểu biết; hiểu biết đến độ ngồi “tĩnh lặng”, “mắt khép hờ” mà nghe hết, thấy hết…để rồi ra đi mãi mãi… và kết lại thì người và phật là một:
“Phật chẳng nói gì
cười nhắc nhở
Ngụp lặn trần gian
đã đã rồi, thì đi!
Chớ hoài nghi
Ai cũng là ta cả”
Nhất Dương bước vào tuổi già “Dày nỗi ưu tư”, “lòng nặng đầy phố cũ” vì nhà cũ, phố cũ đã nhiều thay đổi, cô láng giềng “tóc bạc, lưng còng”…Đêm nằm “khắc khoải” thương đời, thương người, thương con chim cuốc cô đơn bị lạc giữa phố, mất tổ ấm, không người thân:
“Tân mão vào xuân, rét mướt qua.
Vẳng vang quắc quắc phía sau nhà
Đầm ao xây phố; ơ! Con Cuốc
Khua động đêm dài mãi gần xa.
Nghe tiếng chim Cuốc mà liên tưởng đến mình, đời người:
“Quắc quắc đêm trường tự ngàn xưa
Tụng niệm thăng trầm nắng mưa thế cục
Từ trẻ thơ đi trọn đời…thân thuộc
dọc thời gian sần sùi”
Bài “ NGHE TIẾNG CON CHIM CUỐC” là một bài thơ hay, thông qua tiếng chim cuốc tác giả không những khắc họa thân phận con người mà còn cả thế sự, thời cuộc nữa. Tiếng chim cuốc “lẻ loi” trong đêm khuya thật day dứt, buồn thương, thảm thiết, cứ văng vẳng vang xa mãi, vừa như thực, lại như mơ, lại vừa như ký ức từ quá khứ vọng về và in đậm vào tâm trí người đọc; thương cho thân phận con cuốc và thương cho kiếp nhân sinh:
“Quắc quắc đêm xuân- thực hay mơ
Tiếng gọi bạn tình- mải miết…
Sao lẻ loi!
Hay
Lời giã biệt
lang thang về phía trằm đoài
miền mênh mang huyền thoại
khắc khoải những vần thơ
Ơ!
Đêm xuân nay
lơ mơ
quắc quắc”
Nhất Dương làm thơ với lượng bài không nhiều, đủ in một tập; anh nói rằng chơi để làm thơ, làm thơ để chơi và bộc bạch nỗi niềm…nhưng cũng đủ để khắc họa chân dung một nhà thơ, có nhân cách và phong cách riêng không lẫn với ai cả; không phải nhà thơ nào cũng làm được điều này. Anh cứ thủng thẳng buông từng từ, từng câu sâu sắc và triết lý; hình ảnh ấn tượng, điển hình, khái quát cao; liên tưởng trong thơ anh không xuôi chiều mà đa chiều, xa, sâu rộng và trí tuệ, thế nên luôn tạo ra những khoảng trống để người đọc tưởng tượng và suy tư… Về hình thức nghệ thuật, tạng của anh rất hợp thể loại thơ bậc thang tự do để anh thể hiện đúng mình: phóng khoáng và kiệm lời; những bài thơ dạng này thành công hơn các thể khác. Thông qua những tác phẩm thơ người đọc thấy rõ phẩm chất một con người, một thầy giáo Nhất Dương trí tuệ, hiền hòa, đôn hậu và bao dung.
Sơn Tây 08/ 10 /2014 (Rằm tháng chín)
N Đ T
]]>
Não lòng tiếng ếch kêu mưa
Bão dông đã lắng, còn thừa gió dong
Ao tràn cá nhảy ra sông
Nụ ra chệch vụ thành bông trái mùa
Ngóng trời gặp ánh sao thưa
Mây như giẻ vụn ai vừa xé rơi
Nỗi lòng ăm ắp đầy vơi
Lời ru đêmvọng động trời phía xa.
Buồn vui
Buồn vui một trận khóc cười
Lũ không để ngấn sông trôi bạt thuyền
Cây lay bão rớt chưa yên
Còn nghe đùng đục quanh miền sấm ran
Bâng khuâng trước nẻo thu tàn
Xạc xào lá rụng ngổn ngang đường chiều
Tầng mây gió tạt phiêu diêu
Cuốn đi mất cả cánh diều…biệt xa
Đêm sương, sao lặn trăng tà
Tiếng con chim núi vọng ra bồi hồi
Buồn chi, buồn rũ người ơi
Đã thân tằm cứ suốt đời nhả tơ
Cái còn như thể hư vô
Dường như cái mất cơ hồ lại nguyên
KHẢI HƯNG
NHỮNG CON ĐÒ SÔNG TÍCH (2013)
Ơi ! những con đò sông Tích
Trở về sau những chuyến đi
Nằm nghe dòng đời chuyển dịch
Dưới tầng mây trắng Ba Vì
Trả tiếng ồn ào cho sóng
Mây đen trả lại bão giông
Buồm trắng khép rồi cánh mộng
Tơ vương chi để bận lòng
Ấm áp vòng tay bến mẹ
Lắng nghe từng tiếng chuông dồn
Đường đời còn bao ngả rẽ
Biết người ai dại ai khôn
Thuyền to đừng chê đò nhỏ
Phận ai đều có phúc phần
Trăng sao khi mờ khi tỏ
So gì cao thấp mấy phân
Ơi! những con đò sông Tích
Lênh đênh chìm nổi mãi rồi
Mạn đừng va nhau lịch kịch
Để còn nghe sóng ru nôi
]]>